CÂY NGÔ VIỆT NAM

Sunday, March 19, 2023

THP9 làm tăng cường protein hạt bắp và hiệu quả sử dụng phân N

 THP9 làm tăng cường protein hạt bắp và hiệu quả sử dụng phân N

Nguồn: Yongcai Huang, Haihai Wang, Yidong Zhu, Xing Huang, Shuai Li, Xingguo Wu, Yao Zhao, Zhigui Bao, Li Qin, Yongbo Jin, Yahui Cui, Guangjin Ma, Qiao Xiao, Qiong Wang, Jiechen Wang, Xuerong Yang, Hongjun Liu, Xiaoduo Lu, Brian A. Larkins, Wenqin Wang & Yongrui Wu. 2022. THP9 enhances seed protein content and nitrogen-use efficiency in maize. Nature; Article; Published: 16 November 2022.

https://doi.org/10.1038/s41586-022-05441-2

 

Teosinte, tổ tiên hoang dã của cây bắp trồng (Zea mays subsp. mays), hàm chứa gấp ba lần lượng protein trong hạt so với giống bắp cận giao cải tiến và giống bắp lai, nhưng những cơ chế nào làm ra kết quả như vậy vẫn chưa được biết rõ. Ở đây, các tác giả công trình khoa học này sử dụng trio binning để tạo nên hệ thống “contiguous haplotype DNA sequence of a teosinte” (Zea mays subsp. parviglumis). Thông qua kỹ thuật “map-based cloning”, họ phân lập được một locus chủ lực mã hóa tính trạng hàm lượng protein cao trong  hạt bắp, gen TEOSINTE HIGH PROTEIN 9 (THP9), định vị trên nhiễm sắc thể 9. THP9 mã hóa một enzyme mang tên “asparagine synthetase 4” nó biểu hiện rất mạnh mẽ trong nguồn bắp teosinte, nhưng không có trong giống bắp cận giao B73, trong đó, một mất đoạn (deletion) ở phân tử intron số 10 của gen THP9-B73 gây ra “splicing” không chính xác của phân tử transcript THP9-B73. Kết quả biểu hiện transgenic của gen THP9-teosinte trong giống bắp B73 tăng lên đáng kể hàm lượng protein của hạt bắp. Du nhập gen THP9-teosinte vào giống bắp cận giao cải tiến và giống bắp lai cao sản đã thúc đẩy mạnh mẽ sự tích tụ các amio acid tự do, đặc biệt là asparagine, trong toàn thân cây, và làm gia tăng hàm lượng protein hạt bắp mà không ảnh hưởng gì đến năng suất. THP9-teosinte dường như làm tăng hiệu quả sử dụng phân N (nitrogen-use efficiency: NUE), sự tăng hiệu quả này rất quan trọng để đạt năng suất cao trong điều kiện canh tác bón ít phân N.

 

Xem https://www.nature.com/articles/s41586-022-05441-2

Quản lý sâu hại bắp Spodoptera frugiperda bằng phương pháp IPM & giống kháng

 Quản lý sâu hại bắp Spodoptera frugiperda bằng phương pháp IPM & giống kháng

Nguồn: Boddupalli M. Prasanna, Anani Bruce, Yoseph Beyene, Dan Makumbi, Manje Gowda, Muhammad Asim, Samuel Martinelli, Graham P. Head & Srinivas Parimi. 2022. Host plant resistance for fall armyworm management in maize: relevance, status and prospects in Africa and Asia. Theoretical and Applied Genetics Nov. 2022; vol. 135: 3897–3916

 

 

Quản lý bền vững sâu xanh FAW (fall armyworm) trên cây bắp cần phải có chiến lược quản lý tổng hợp rất hiệu quả (IPM), thông qua tính kháng sâu của giống bắp như một yếu tố quyết định. Những cơ gội khác đóng góp có ý nghĩa là phát triển và khai thác những giống bắp ưu việt có nguồn kháng di truyền từ giống bản địa và/hoặc tính kháng được chuyển từ nguồn di truyền khác (transgenic) để quản lý FAW tại châu Phi và châu Á.

 

Sâu xanh FAW (fall armyworm: Spodoptera frugiperda (J.E. Smith)) đã và đang hiện diện rộng khắp như tác nhân gây hại nghiêm trọng kể từ năm 2016 tại châu Phi, và từ năm 2018 tại châu Á, ảnh hưởng đến an ninh lương thực và an sinh xã hội của hàng triệu nông dân sản xuất nhỏ, đặc biệt canh tác bắp. Kiểm soát bền vững sâu FAW cần phải thực hiện hiệu qua IPM, trong đó, tính kháng của cây chủ là một trong những thành tố then chốt. Những bước tiến dài có ý nghĩa trong cải tiến giống bắp cao sản ưu việt và giống bắp ưu thế lai với tính kháng di truyền nội sinh đối với sâu FAW tại châu Phi, trên cơ sở ngân hàng gen biểu thị tính kháng sâu hại mạnh mẽ vùng nhiệt đới đã được phát triển bởi CYMMIT (International Maize and Wheat Improvement Center), Mexico. Những nỗ lực đáng trân trọng ấy đã phát triển và khai thác được nhiều giống bắp cao sản ưu việt với tính kháng hay chống chịu được sâu FAW có tính chất nội sinh và biểu hiện nhiều tính trạng thích ứng với sự ưa thích của nông dân đối với đa dạng sinh thái canh tác của châu Phi và châu Á. Riêng về giống bắp biến đổi gen, giống bắp mang gen ngoại lai Bt  biểu thị tính kháng với sâu FAW đang được thương mại hóa tại châu Phi, và một vài nước ở châu Á như Philippines, Việt Nam, trong khi đó, mọi nỗ lực vẫn đang tiếp tục thương mại hóa cây sự kiện Bt tại nhiều quốc gia khác của hai châu lục này. Trong những nước đang trồng giống bắp Bt được thương mại hóa, điều quan trọng là phải thực hiện một chiến lược quản lý tính kháng sâu hại trên quy mô lớn. Kết hợp chiến lược khai thác nguồn “native genetic resistance” và nguồn di truyền ngoại lai Bt, giống bắp còn được khai thác theo lộ trình biểu thị tính kháng sâu hại bền vững hơn và hiệu quả hơn. Người ta còn phác thảo những thiếu sót có tính chất cực trọng (critical gaps) và xác lập mức độ ưu tiên đối với tính kháng của cây chủ, rồi phát triển giống bắp, đặc biệt là trong ngữ cảnh “quản lý sâu FAW bền vững” tại châu Phí và châu Á.

 

Xem https://link.springer.com/article/10.1007/s00122-022-04073-4

Di truyền tính kháng bệnh “Fusarium stalk rot” trên nhiễm sắc thể 6 của hệ gen cây bắp

 Di truyền tính kháng bệnh “Fusarium stalk rot” trên nhiễm sắc thể 6 của hệ gen cây bắp

Nguồn: Zerka RashidVeerendra BabuShyam Sundar SharmaPradeep Kumar Singh & Sudha Krishnan Nair. 2022. Identification and validation of a key genomic region on chromosome 6 for resistance to Fusarium stalk rot in tropical maize. Theoretical and Applied Genetics December 2022; vol. 135: 4549–4563

 

Vùng đích của hệ gen được xác định đối với tính kháng bệnh FSR tại điểm có kích thước phân tử 168 Mb thuộc nhiễm sắc thể 6 theo kết quả GWAS và phân tích haplotype, chúng được minh chứng bởi kết quả “QTL mapping” trong 2 quần thể.

 

Fusarium stalk rot (FSR) là bệnh hại trên cây bắp gây thiệt hại về kinh tế  quan trọng sau khi trổ cờ, phun râu, nó còn có tên là PFSR (post-flowering stalk rot). Bệnh do nấm Fusarium verticillioides. Chính pathogen này xâm nhiễm vào thân bắp một cách đơn độc, hoặc kết hợp những pathogen khác gây thối thân, hoặc trở thành những colonizers thứ cấp, do đó, người ta rất khó thực hiện việc chọn lọc chính xác tính kháng bệnh này. Muốn phân lập và minh chứng đầy đủ các vùng mục tiêu trên hệ gen cây bắp có liến quan đến tính kháng bệnh FSR, người ta thực hiện chạy GWAS thông qua 342 dòng bắp. Tập đoàn giống này được sàng lọc bệnh FSR tại 3 vùng sinh thái khác nhau, sử dụng phương pháp “standard artificial inoculation” (chủng bệnh nhân tạo đúng tiêu chuẩn). GWAS chạy trên nền tảng mô phỏng toán học đa tuyến (mixed linear model) được hiệu chỉnh cho đúng với kiến trúc quần thể và “kinship”, trong đó, người ta sử dụng 290.626 chỉ thị phân tử SNPs theo phương pháp GBS (genotyping-by-sequencing). Có tất cả 7 chỉ thị SNPs, 5 chỉ thị trên nhiễm sắc thể 6, biểu hiện giá trị LD mạnh ở vị trí 168 Mb, tất cả xác định có liên quan đến bệnh FSR. Phân tích “haplotype regression” xác định được 32 haplotypes có ảnh hưởng ý nghĩa về thống kê đến tính trạng mục tiêu. Trong “QTL mapping”, với 2 quần thể con lai, người ta minh chứng rõ ràng hơn những  variants đích. Kết qủa QTLs xác định mức tin cậy tại những “intervals” có những “physical coordinates” chồng lấp lên nhau trong cả 2 quần thể con lai tại nhiễm sắc thể 6, mà kết quả GWAS cũng xác đi5ng những variants ấy trên nhiễm sắc thể 6. Vùng mục tiêu này trên hệ gen cây bắp rất cần thiết phục vụ cho nghiên cứu sâu hơn về khả năng phát triển nhiền hơn những markers tính trạng phục vụ cho nhiều chương trình lai tạo giống bắp cải tiến. Ghi nhận rằng có nhiều QTLs đã được báo cáo trước đây về những triệu chứng khác về thối thân đã được mapped trên bản đồ di truyền, trong cùng những “physical intervals” của những haplotypes đã được phân lập đối với tính kháng FSR theo nghiên cứu này. Khả năng của những QTLs kiểm soát phổ kháng rộng bệnh PFSR về tổng thể cũng cần được nghiên cứu sâu.

 

Xem https://link.springer.com/article/10.1007/s00122-022-04239-0

GWAS với tính trạng năng suất và phẩm chất bắp trong điều kiện bón N bình thường và bón thiếu đạm

 GWAS với tính trạng năng suất và phẩm chất bắp trong điều kiện bón N bình thường và bón thiếu đạm

Nguồn: Noel NdlovuCharles SpillanePeter C. McKeownJill E. CairnsBiswanath Das & Manje Gowda. 2022. Genome-wide association studies of grain yield and quality traits under optimum and low-nitrogen stress in tropical maize (Zea mays L.). Theoretical and Applied Genetics December 2022; vol. 135: 4351–4370

 

Genome-wide association study (GWAS) đã minh chứng được rằng các vùng khác nhau của hệ gen có ảnh hưởng nhất định đến phẩm chất hạt trong điều kiện đất đói đạm. Sử dụng mô hình dự đoán sàng lọc di truyền (genomic prediction), kết quả hiệu quả chọn lọc (GA: genetic gains) có thể được cải tiến thông qua chọn lọc các tính trạng có liên quan đến phẩm chất hạt bắp.

 

Đất đai vùng cận sa mạc Sahara (sub-Saharan Africa) rất thiếu nitrogen do bón phân quá ít và quản lý độ phì nhiêu đất kém. Điều này làm cho chênh lệch giữa năng suất thực tế và năng suất lý thuyết cách biệt có ý nghĩa cho cây bắp, làm cho an ninh dinh dưỡng cũng bị ảnh hưởng và mức ổn định về anh sinh xã hội kém trong các vùng như vậy. Nghiên cứu cơ sở di truyền của hàm lượng protein trong hạt bắp, tinh bột và dầu trong điều kiện đất đói đạm (nitrogen-starved soils) có thể làm gia tăng sự hiểu biết của chúng ta trong quản lý tốt hệ thống di truyền và cải tiến mức độ hiệu quả của chương trình lai tạo giống bắp tương lai. Tập đoàn giống được sử dụng để xây dựng bản đồ di truyền kiểu “association mapping” bao gồm 410 dòng bắp cận giao và 4 quần thể con lai “bi-parental”  được người ta đánh giá trên đồng ruộng tại Kenya và South Africa trong nghiệm thức bón N tối hảo và nghiệm thức bón nitrogen thấp; đánh giá kiểu gen nhờ bộ chỉ thị SNP bao gồm 259.798 markers. Tương quan di truyền cho thấy những quần thể như vậy có thể được sử dụng để chọn lọc ra các dòng ưu việt trong điều kiện stress bởi nitrogen thấp. Bên cạnh đó, giống (G), môi trường (E) và tương tác GxE trong nghiệm thức đất đói đạm đã được tìm thấy khác biệt rất có ý nghĩa về hàm lượng dầu trong hạt bắp. Hệ số di truyền theo nghĩa rộng biến thiên từ giá trị trung bình (0.18) đến caoh (0.86). Trong nghiệm thức có stress do nitrogen thấp, kết quả GWAS xác định được 42 chỉ thị SNPs liên kết chặt với tính trạng liên quan đến phẩm chất hạt. Những chỉ thị phân tử SNPs có ý nghĩa như vậy đã gắn với  51 gen ứng cử viên giả định (putative candidate genes). Kết quả chạy trên bản đồ “linkage mapping” đã xác định được nhiều QTLs quy định các tính trạng phẩm chất hạt bắp. Trong điều kiện nitrogen thấp, mức độ dự đoán chính xác di truyền trung bình thông qua các vật liệu giống bắp ấy đều cho hàm lượng dầu trong hạt cao hơn (0.78) và năng suất thấp hơn (0.08). Kết quả này chỉ ra rằng phẩm chất hạt là tính trạng đa gen, sử dụng “genomic selection” (sàng lọc di truyền) trong chọn tạo giống bắp có thể cải tiến được hiệu quả chọn lọc (genetic gain). Hơn nữa, các vùng được xác định trong hệ gen này và những chỉ thị phân tử SNP có thể được sử dụng dòng bắp cao sản có phẩm chất hạt mong muốn.

 

Xem https://link.springer.com/article/10.1007/s00122-022-04224-7

 

Hình 2: Sơ đồ Manhattan và “quantile–quantile plots” có được nhờ  mô phỏng “mixed linear” (đa tuyến) đối với năng suất hạt (A), hàm lượng protein (B), hàm lượng tinh bột (C), hàm lượng dầu (D) trong nghiệm thức nghèo phân N.

Nghiên cứu cho thấy rễ `dốc thẳng đứng, nhiều và sâu` giúp cây ngô đối phó với hạn hán

 Nghiên cứu cho thấy rễ `dốc thẳng đứng, nhiều và sâu` giúp cây ngô đối phó với hạn hán

Thực vật biểu hiện kiểu hình rễ tiết kiệm thực sự mọc ít rễ hơn, đảm bảo rằng số ít rễ được tạo ra có đủ khả năng để phát triển sâu vào đất, điều này đặc biệt quan trọng trong điều kiện hạn hán. Hình trên cho thấy các rễ mô phỏng ở các địa điểm trồng ngô ở Boone County, Iowa, Hoa Kỳ và Tepatitlán, Jalisco, Mexico. Nguồn: Penn State, Tổ chức phi lợi nhuận.

 

Rất hiếm khi xuất hiện trong tự nhiên nhưng hóa ra nhiều hơn so với chúng ta nghĩ. Nhưng đó là trường hợp khi đề cập đến rễ ngô đối phó với điều kiện khô hạn, theo một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế do Penn State dẫn đầu, là người đã phát hiện ra bằng chứng về lợi ích của kiểu hình rễ "tiết kiệm" trong một nghiên cứu mới.

 

Parsimonius - được định nghĩa là "không muốn sử dụng tài nguyên, keo kiệt hoặc tiết kiệm" - là từ mô tả hoàn hảo cho các đặc điểm được xác định về mặt di truyền cho phép thực vật đạt được sự tăng trưởng sinh dưỡng được cải thiện, theo tác giả chính của nghiên cứu, Jonathan Lynch, giáo sư khoa học thực vật nổi tiếng ở Đại học Khoa học Nông nghiệp. Ông đã chỉ ra chiến lược tiết kiệm rễ bao gồm các loại cây phát triển "rễ dốc thẳng đứng, tiết kiệm và sâu".

 

"Dốc đứng" đề cập đến các đặc điểm kiến trúc như góc tăng trưởng làm cho rễ hướng xuống dưới ở một góc sắc nét hơn, tìm kiếm sâu hơn để lấy nguồn nước và chất dinh dưỡng khan hiếm. “Tiết kiệm” đề cập đến chi phí trao đổi chất đối với cây ngô và bao gồm các đặc điểm như tạo ra ít rễ hơn và tạo ra rễ có khoảng không khí bên trong (mô khí) để giảm số lượng tế bào sống.

 

Lynch đã giải thích rằng thực vật biểu hiện kiểu hình rễ tiết kiệm thực sự phát triển ít rễ hơn. Điều này đảm bảo rằng một số ít rễ được tạo ra có đủ khả năng để phát triển sâu vào đất, điều này đặc biệt quan trọng trong điều kiện hạn hán. Vì thế, đặc tính của rễ là tiết kiệm, dốc thẳng đứng và sâu.

 

Lynch đã lưu ý rằng như một phần thưởng bổ sung, kiểu hình rễ tiết kiệm cho phép thực vật lưu trữ hoặc cô lập nhiều carbon khí quyển sâu hơn trong đất, nơi nó sẽ tồn tại trong thời gian dài.

 

Ông nói: “Đó là một cân nhắc quan trọng với biến đổi khí hậu dự kiến sẽ làm tăng tần suất và mức độ bất lợi nghiêm trọng của hạn hán trong tương lai. Chúng tôi tin rằng cây trồng có thể được tạo ra để chống chịu hạn hán tốt hơn và có khả năng cô lập carbon khí quyển trong đất tốt hơn bằng cách chọn các kiểu hình rễ thích hợp”.

 

Để kiểm tra các giả thuyết của họ, các nhà nghiên cứu đã sử dụng một mô hình mô phỏng đất/thực vật cấu trúc chức năng mã nguồn mở có tên là OpenSimRoot - một công cụ mạnh mẽ được phát triển tại Penn State trong ba thập kỷ qua - cho phép họ mô phỏng rõ ràng hình dạng của rễ và các đặc tính của đất trong không gian ba chiều theo thời gian.

 

Trong nghiên cứu, các nhà khoa học đã thử nghiệm khả năng của một số biến thể của kiểu mẫu dốc đứng, tiết kiệm và sâu so với kiểu hình rễ tham chiếu của ngô trong điều kiện hạn hán và mưa trong ba môi trường sản xuất ngô riêng biệt. Để mô phỏng chính xác hệ thống nông nghiệp trồng ngô nhờ nước trời, các bộ dữ liệu khí hậu và đất thực tế cho ba địa điểm trồng ngô khác nhau đã được sử dụng: Boone County, Iowa, Hoa Kỳ; Zaria Kaduna, Nigeria; và Tepatitlán, Jalisco, Mexico.

 

Trong các phát hiện được công bố gần đây trên tạp chí Frontiers in Plant Science, các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng trong tất cả các môi trường nơi thực vật bị hạn hán, kiểu hình dốc đứng, tiết kiệm và sâu dẫn đến sinh khối chồi lớn hơn sau 42 ngày tăng trưởng. Như một lợi thế bổ sung, họ đã phát hiện ra lượng carbon lắng đọng dưới 2 feet (0,66m) trong đất đối với kiểu hình dốc đứng, tiết kiệm và sâu gấp đôi so với kiểu hình tham chiếu trong năm trên sáu môi trường mô phỏng.

 

Trong điều kiện khô hạn được mô phỏng, các kiểu hình dốc đứng, tiết kiệm và sâu khác so với kiểu hình tham chiếu theo một số cách quan trọng giúp tăng hiệu suất và khả năng sống sót của cây. Các kiểu hình "dốc đứng, tiết kiệm và sâu" tạo ra khoảng một nửa số lượng rễ trục nông, các góc của tất cả các rễ trung bình dốc hơn 20 độ so với các kiểu hình tham chiếu, mật độ phân nhánh của rễ bên (thước đo khả năng chịu hạn càng thấp càng tốt) giảm 50% và thể tích khí mô (mô rễ chứa không gian khí mở rộng để vận chuyển nước và chất dinh dưỡng) đã tăng từ 20% lên 40%.

 

Do ngô là cây trồng chính ở Hoa Kỳ và là cây trồng đảm bảo an ninh lương thực quan trọng ở Châu Phi và Châu Mỹ Latinh và vì hạn hán đã là một hạn chế lớn đối với sản xuất cây trồng toàn cầu và đang gia tăng do hậu quả của biến đổi khí hậu toàn cầu, nên những phát hiện của nghiên cứu này rất quan trọng, Lynch gợi ý, đồng thời nói thêm rằng những phát hiện này chỉ ra con đường hướng tới sự phát triển của các loại cây trồng có khả năng phục hồi tốt hơn.

 

Lynch cho biết: “Chúng tôi tin rằng có thể cải thiện sự tăng trưởng của cây trồng và khả năng hấp thụ carbon trong đất sâu bằng cách nhân giống những cây ngô có ít rễ cọc hơn, giảm mật độ phân nhánh của rễ bên và hình thành mô khí nhiều hơn. Nghiên cứu này mang lại thông tin mà các nhà lai tạo ngô có thể sử dụng để phát triển khả năng chịu hạn tốt hơn bằng cách chọn những cây có kiểu hình rễ sâu, dốc thẳng đứng và tiết kiệm, với ít rễ thực hơn”.

Cải tiến tính trạng chống chịu hạn của cây bắp

Cải tiến tính trạng chống chịu hạn của cây bắp

Nguồn: Michael S McMillenAnthony A MahamaJulia Sibiya. 2022. Improving drought tolerance in maize: Tools and techniques. Front Genet.; 2022 Oct 28; 13:1001001.  doi: 10.3389/fgene.2022.1001001.

 

Khô hạn là hạn chế chính đến năng suất nông nghiệp trên toàn thế giới. Trong biến đổi khí hậu nó càng ngày càng tệ hơn. Để giúp đỡ nông dân, đặc biệt đang canh tác vùng cận sa mạc Sahara (SSA), thích ứng với biến đổi khí hậu, người ta sáng tạo ra thế hệ tiếp nối nhau của giống cây trồng chống chịu stress, được nông dân ưa thích, chấp nhận, đây là mục tiêu cực trọng của an ninh lương thực. Bắp là cây lương thực có diện tích rộng lớn nhất tại SSA, đóng góp vai trò quan trọng trong an ninh lương thực. Mục đích của bài tổng quan này là xem xét mới nhất về sự phát triển phổ cập những công cụ và kỹ thuật hiện nay được người ta sử dụng để cải tiến tính chống chịu khô hạn của cây bắp. Người ta còn tóm tắt tiến bộ trong chọn tạo giống bắp chống chịu khô hạn, kết hợp thành tựu nghiên cứu từ nhiều chuyên ngành khác nhau như sinh lý học, sinh học phân tử, và mô phỏng có tính chất hệ thống (systems modeling). Tổng quan kỳ vọng giới thiệu kiến thức mới về chọn giống bắp thích ứng với khí hậu. Dự án cài tiến giống bắp mang tính chất hợp tác như vậy cho vùng SSA nhấn mạnh đến giá trị đối tác công tư (public-private partnerships) trong gia tăng việc tiếp cận với kỹ thuật genomic và những transgenes hữu ích. Nhằm ổn định được tác động của các dự án chọn giống bắp tại SSA, người ta phải nỗ lực nhiều hơn để khảo nghiệm thế hệ con lai kế tiếp bởi các nhà chọn giống và nhà khoa học cây trồng.

 

Xem https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/36386797/

Giống bắp kháng thuốc cỏ tại Trung Quốc

Giống bắp kháng thuốc cỏ tại Trung Quốc

Nguồn: Xiaoxing Yu , Yongzheng Sun, Chaoyang Lin , Pengfei Wang, Zhicheng Shen and Yu Zhao. 2023. Development of Transgenic Maize Tolerant to Both Glyphosate and Glufosinate. AGRONOMY 2023, 13: 226. https://doi.org/10.3390/agronomy13010226

 

Cây trồng biến đổi gen (GM) chống chịu với thuốc diệt cỏ glyphosate đã và đang phát triển mang lại lợi ích đáng kể về kinh tế trong các trang trại sản xuất lớn. Tuy nhiên, sự tiến triển tính kháng thuốc glyphosate trong quản lý cỏ dại do người ta sử dụng quá mức lâu dài đặt ra mối hiểm họa hết sức nghiêm trọng. Tại Trung Quốc, người ta khai thác giống bắp chuyển gen kháng thuốc cỏ từ rất sớm khi có thành tựu này trên thế giới để quản lý cỏ dại trên đồng ruộng có quy mô lớn. Ở đây, người ta báo cáo kết quả sáng tạo và định tính sự kiện bắp chuyển gen chống chịu thuốc cỏ “event SCB-29” biểu hiện được cả gen “cp4 epsps” và gen “bar”. Giống bắp transgenic này chống chịu với glyphosate đến mức độ 3600 g a.e. ha−1 và chống chịu glufosinate đến mức độ 3600 g a.i. ha−1, gấp bốn lần mức độ khuyến cáo đối với hai loại thuốc diệt cỏ này. SCB-29 là giống bắp sự kiện chỉ có bản sao đơn (single copy) của T-DNA chèn vào nhiễm sắc thể 10 trong hệ gen cây bắp. Phương pháp tìm giống sự kiện này bằng xét nghiệm PCR được thiết kế đặc biệt, ba thế hệ của SCB29 được tìm thấy bởi “specific PCR” như vậy, kết quả gợi ra rằng những transgenes này rất ổn định  khi dung hợp vào hệ gen cây bắp. Kết quả phân tích mức độ biểu hiện gen đích cho thấy các transgenes của cây bắp thuộc nhiều thế hệ thông qua xét nghiệm có thuật ngữ khoa học là “enzyme-linked immunosorbent assays”. Chúng biểu hiện một cách ổn định qua các thế hệ khác nhau. Hơn nữa, các tính trạng nông học mong muốn của SCB-29 gần như giống nhau với giống bắp đối chứng không chuyển gen, chứng tỏ: SCB-29 không có những liên kết không mong muốn với năng suất (yield drag). SCB-29 là ứng cử viên xuất sắc chống chịu được thuốc cỏ, giống bắp sự kiện này được phát triển tiếp tục  thành giống thương mại.

 



Kết hợp bản đồ di truyền “linkage” và bản đồ “association” của các tính trạng liên quan đến hình thái lá bắp; gen đích là Zm00001d026491

Kết hợp bản đồ di truyền “linkage” và bản đồ “association” của các tính trạng liên quan đến hình thái lá bắp; gen đích là Zm00001d026491

Nguồn: Wei DaiHong YuKai LiuYujuan ChengxuJiaquan YanChen ZhangNa XiHao LiuChaoyang XiangchenChaoying ZouMinyan ZhangShibin GaoGuangtang PanLanglang Ma & Yaou Shen. 2023. Combined linkage mapping and association analysis uncovers candidate genes for 25 leaf-related traits across three environments in maize. Theoretical and Applied Genetics January 2023; vol. 136: 1–14 

 

Phân tích di truyền nhờ bản đồ liên kết (linkage) và phối hợp (association) cho thấy có tất cả 5 loci đích tương tác rõ ràng với môi trường. Gen chủ chốt là Zm00001d026491 được minh chứng có ảnh hưởng đáng kể đế chiều dài lá, theo phân tích gen ứng cử viên của phương pháp “association analysis”.

 

Hình thái học lá bắp và số lá xác định cấu trúc tán lá, có ảnh hưởng nhất định đến năng suất hạt. Ở đây, cơ cở di truyền và những gen chủ lực của 25 tính trạng hình thái học lá bắp  như chiều dài lá (LL), chiều rộng lá (LW), diện tích lá (LA) của 8 lá bắp mọc liên tục phía dưới cờ bắp (tassel), và số lá bắp phía trên hoa cái (primary ear: LAE), được xem xét thông qua tập đoàn giống bắp trong phân tích “association” và thông qua quần thể con lai “biparental”. Sử dụng con lai quần thể đơn bội kép giữa các tổ hợp lai B73 × Mo17 (IBM) Syn10 (DH: quần thể đơn bội kép), người ta xác định 290 QTLs điều khiển các tính trạng này thông qua dữ liệu thu thập từ nhiều ruộng thí nghiệm khác nhau, trong đó, có 115 QTLs được xác định có tính chất lập lại ở mỗi cá thể tại ít nhất 2 môi trường khác nhau. Sử dụng tập đoàn giống vật liệu “association”, có 165 chỉ thị phân tử SNPs mang tính chất “unique” (độc nhất) gắn với tính trạng mục tiêu (P < 2.15E-06), trong đó, 35 chỉ thị được tìm thấy riêng biệt trong từng môi trường ruộng thí nghiệm khác nhau. Nhìn chung, có 42 QTL mang tính chất đa tính trạng (pleiotropic QTL) đối với những chỉ thị SNPs (pQTL/SNPs) đáp ứng với ít nhất 2 tính trạng của những tính trạng chính: LL, LW, LA, và LAE qua các môi trường khác nhau. Kết hợp phương pháp “QTL mapping” và phương pháp phân tích “association”, người ta tìm thấy 5 chỉ thị SNPs có tính chất “unique” định vị trên quãng phân tử đáng tin cậy mang gen đích là 7 QTLs, và có 77 gen được phân lập trên cơ sở vùng mang tính chất LD (linkage disequilibrium) của những loci đồng vị trí SNP. Nghiên cứu GWAS xác định được những biến thể mang tính chất “intragenic” của gen ứng cử viên Zm00001d026491 ảnh hưởng đến tính trạng LL của lá thứ ba từ lóng thân đầu tiên (top node). Kết quả này sẽ cung cấp thông tin cập nhật để người ta hiểu rõ hơn cơ sở di truyền của các tính trạng hình thái lá bắp, giúp người ta canh tác giống bắp theo kiến trúc cây lý tưởng để đạt hiệu quả quang hợp mong muốn.

 

Xem https://link.springer.com/article/10.1007/s00122-023-04285-2